Tiếp theo phần 1 trong topic học kiểm thử phần mềm -bài Tổng quan về Kiểm thử hợp đen và ưu nhược điểm. Sang phần 2, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu các loại kiểm thử họp đen nhé
2. Các loại kiểm thử phần mềm hợp đen mà bạn cần phải biết
2.1. Kiểm thử tích hợp là gì?
Integration test (kiểm thử tích hợp ) là kết hợp các thành phần của một ứng dụng và kiểm thử như một ứng dụng đã hoàn thành. Trong khi Unit Test kiểm tra các thành phần và Unit riêng lẻ thì Intgration Test kết hợp chúng lại với nhau và kiểm tra sự giao tiếp giữa chúng.
Hai
mục tiêu chính của Integration Test:
·
Phát
hiện lỗi giao tiếp xảy ra giữa các Unit.
·
Tích
hợp các Unit đơn lẻ thành các hệ thống nhỏ (Subsystem) và cuối cùng là nguyên hệ
thống hoàn chỉnh (System) chuẩn bị cho kiểm thử ở mức hệ thống (System Test).
Trong Unit Test, lập trình viên cố gắng
phát hiện lỗi liên quan đến chức năng và cấu trúc nội tại của Unit. Có một số
phép kiểm thử đơn giản trên giao tiếp giữa Unit với các thành phần liên quan
khác, tuy nhiên mọi giao tiếp liên quan đến Unit chỉ thật sự được kiểm tra đầy
đủ khi các Unit tích hợp với nhau trong khi thực hiện Integration Test.
Trừ một số ít ngoại lệ, Integration
Test chỉ nên thực hiện trên những Unit đã được kiểm tra cẩn thận trước đó bằng
Unit Test, và tất cả các lỗi mức Unit đã được sửa chữa. Một số người hiểu sai rằng
Unit một khi đã qua giai đoạn Unit Test với các giao tiếp giả lập thì không cần
phải thực hiện Integration Test nữa. Thực tế việc tích hợp giữa các Unit dẫn đến
những tình huống hoàn toàn khác.
Một chiến lược cần quan tâm trong Integration Test là nên tích hợp dần từng Unit. Một Unit tại một thời điểm được tích hợp vào một nhóm các Unit khác đã tích hợp trước đó và đã hoàn tất các đợt Integration Test trước đó. Lúc này, ta chỉ cần kiểm thử giao tiếp của Unit mới thêm vào với hệ thống các Unit đã tích hợp trước đó, điều này sẽ làm cho số lượng can kiểm thử giảm đi rất nhiều, và sai sót sẽ giảm đáng kể.
Có 3 loại kiểm thử hộp đen trong Integration Test:
·
Kiểm
thử chức năng (Functional Test):
Tương tự Black Box Test, kiểm thử chức năng chỉ chú trọng đến chức năng của
chương trình, mà không quan tâm đến cấu trúc bên trong, chỉ khảo sát chức năng
của chương trình theo yêu cầu kỹ thuật.
·
Kiểm
thử hiệu năng (Performance Test): Kiểm
thử việc vận hành của hệ thống.
·
Kiểm
thử khả năng chịu tải (Stress Test): Kiểm
thử các giới hạn của hệ thống.
2.2. Kiểm thử hệ thống là gì ?
Mục đích System Test ( kiểm thử hệ thống) là kiểm thử thiết kế và toàn bộ hệ thống (sau khi tích hợp) có thỏa mãn yêu cầu đặt ra hay không.
System Test bắt đầu khi tất cả các bộ
phận của phần mềm đã được tích hợp thành công. Thông thường loại kiểm thử này tốn
rất nhiều công sức và thời gian. Trong nhiều trường hợp, việc kiểm thử đòi hỏi
một số thiết bị phụ trợ, phần mềm hoặc phần cứng đặc thù, đặc biệt là các ứng dụng
thời gian thực, hệ thống phân bố, hoặc hệ thống nhúng. Ở mức độ hệ thống, người
kiểm thử cũng tìm kiếm các lỗi, nhưng trọng tâm là đánh giá về hoạt động, thao
tác, sự tin cậy và các yêu cầu khác liên quan đến chất lượng của toàn hệ thống.
Điểm khác nhau then chốt giữa Integration Test (kiểm thử tích hợp ) và System Test ( kiểm thử hệ thống) là System Test chú trọng các hành vi và lỗi trên toàn hệ thống, còn Integration Test chú trọng sự giao tiếp giữa các đơn thể hoặc đối tượng khi chúng làm việc cùng nhau.
Thông thường ta phải thực hiện
Unit Test và Integration Test để bảo đảm mọi Unit và sự tương tác giữa chúng hoạt
động chính xác trước khi thực hiện System Test.
Sau khi hoàn thành Integration Test,
một hệ thống phần mềm đã được hình thành cùng với các thành phần đã được kiểm
tra đầy đủ. Tại thời điểm này, lập trình viên hoặc kiểm thử viên bắt đầu kiểm
thử phần mềm như một hệ thống hoàn chỉnh. Việc lập kế hoạch cho System Test nên
bắt đầu từ giai đoạn hình thành và phân tích các yêu cầu.
System Test kiểm thử cả các hành vi
chức năng của phần mềm lẫn các yêu cầu về chất lượng như độ tin cậy, tính tiện
lợi khi sử dụng, hiệu năng và bảo mật. Mức kiểm thử này đặc biệt thích hợp cho
việc phát hiện lỗi giao tiếp với phần mềm hoặc phần cứng bên ngoài, chẳng hạn
các lỗi "tắc nghẽn" (deadlock) hoặc chiếm dụng bộ nhớ. Sau giai đoạn
System Test, phần mềm thường đã sẵn sàng cho khách hàng hoặc người dùng cuối
cùng kiểm thử chấp nhận sản phẩm (Acceptance Test) hoặc dùng thử (Alpha/Beta
Test).
Đòi hỏi nhiều công sức, thời gian và
tính chính xác, khách quan, System Test thường được thực hiện bởi một nhóm kiểm
thử viên hoàn toàn độc lập với nhóm phát triển dự án. Bản thân System Test lại
gồm nhiều loại kiểm thử khác nhau, phổ biến nhất gồm:
·
Kiểm
thử chức năng (Functional Test): Bảo
đảm các hành vi của hệ thống thỏa mãn đúng yêu cầu thiết kế dựa trên use case
hoặc tính năng nghiệp vụ và nguyên tắc nghiệp vụ
·
Kiểm
thử hiệu năng (Performance Test): Bảo
đảm tối ưu việc phân bổ tài nguyên hệ thống (ví dụ bộ nhớ) nhằm đạt các chỉ
tiêu như thời gian xử lý hay đáp ứng câu truy vấn...
·
Kiểm
thử khả năng chịu tải (Stress Test hay Load Test):
Bảo đảm hệ thống vận hành đúng dưới áp lực cao (ví dụ nhiều người truy xuất
cùng lúc). Stress Test tập trung vào các trạng thái tới hạn, các "điểm chết",
các tình huống bất thường như đang giao dịch thì ngắt kết nối (xuất hiện nhiều
trong kiểm tra thiết bị như POS, ATM...)...
·
Kiểm
thử cấu hình (Configuration Test).
·
Kiểm
thử bảo mật (Security Test): Bảo đảm tính toàn vẹn,
bảo mật của dữ liệu và của hệ thống.
·
Kiểm
thử khả năng phục hồi (Recovery Test): Bảo
đảm hệ thống có khả năng khôi phục trạng thái ổn định trước đó trong tình huống
mất tài nguyên hoặc dữ liệu; đặc biệt quan trọng đối với các hệ thống giao dịch
như ngân hàng trực tuyến...
Nhìn từ quan điểm người dùng, các cấp
độ kiểm thử trên rất quan trọng: Chúng bảo đảm hệ thống đủ khả năng làm việc
trong môi trường thực.
Lưu ý là không nhất thiết phải thực
hiện tất cả các loại kiểm thử nêu trên. Tùy yêu cầu và đặc trưng của từng hệ thống,
tuỳ khả năng và thời gian cho phép của dự án, khi lập kế hoạch, người Quản lý dự
án sẽ quyết định áp dụng những loại kiểm thử nào.